Thứ Sáu, 2 tháng 8, 2013

Thông tin Đặt cơ chế “xin - cho“ với nhà báo “đi tòa“?

Nếu quy định này được ưng chuẩn, chắc chắn đây sẽ là rào cản lớn cho các nhà báo, phóng viên khi muốn tiếp cận các nguồn tin từ diễn biến tại các phiên tòa.

Thu hẹp quyền tác nghiệp của báo chí

Dù ứng dụng không hợp nhất nhưng hiện nay nhiều tòa án vẫn yêu cầu các nhà báo, phóng viên trước khi tác nghiệp tại phiên tòa phải xuất trình giấy giới thiệu và Thẻ nhà báo, điều này đã gây bao phiền phức cho hoạt động nghiệp vụ của các phóng viên. Và đến nay khi TANDTC đề xuất quy định trên, vô hình trung hoạt động tác nghiệp của báo chí tại tòa lại phải “vượt” qua một thủ tục hành chính mới, hay nói đúng hơn là phải có thêm một “Giấy phép con” mới có thể đàng hoàng thực hiện nhiệm vụ chính trị-tầng lớp của mình.

Theo Nghị định 51, nhà báo được chụp ảnh, quay phim, thu thanh tại các phiên tòa xét xử công khai.

Hai bản Dự thảo mà TANDTC hiện đang ban bố cùng lúc là Dự thảo Pháp lệnh xử lý hành chính các hành vi ngăn trở hoạt động tố tụng của TAND (gọi là Dự thảo Pháp lệnh 1) và Dự thảo Pháp lệnh xử lý các hành vi cản ngăn hoạt động tố tụng của TAND (Dự thảo Pháp lệnh 2).

Trong đó, Điều 18 của Dự thảo Pháp lệnh 1 quy định: “1. Cảnh cáo đối với một trong các hành vi sau đây:... E) ghi âm, ghi hình tại phiên tòa mà không được sự cho phép bằng văn bản của Chánh án Tòa án nơi giải quyết vụ án hoặc thực hiện việc thu thanh, ghi hình không đúng theo chỉ dẫn và sắp xếp vị trí của Tòa án nơi giải quyết vụ án”.

Cũng có nội dung tượng tự, Điều 17 Dự thảo pháp lệnh 2 quy định: “Cảnh cáo đối với một trong các hành vi sau đây:... E) ghi âm, ghi hình tại phiên tòa mà không được sự cho phép bằng văn bản của Chánh án Tòa án nơi giải quyết vụ án hoặc chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án, thực hành việc ghi âm, ghi hình không đúng theo chỉ dẫn và xếp đặt vị trí của Tòa án nơi giải quyết vụ án”.

So với Dự thảo Pháp lệnh 1 thì thẩm quyền của người ký văn bản cho phép thu thanh, ghi hình tại Dự thảo pháp lệnh 2 mở rộng hơn (ngoài Chánh án tòa án còn có chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án).

Có thể hiểu, đối tượng chịu sự điều chỉnh của quy định nêu trên rất rộng, người vi phạm quy định về ghi âm, ghi hình có thể là người dự tố tụng như bị cáo, người bị hại, người làm chứng, người gượng nhẹ; có thể là nguyên đơn, bị đơn, trạng sư và cũng có thể là các phóng viên, nhà báo đang thực hành nhiệm vụ tác quả báo chí.

Tuy nhiên, khác với các đối tượng kể trên, phóng viên, nhà báo có mặt tại phiên tòa là để thực hành nhiệm vụ của nhà báo theo đặc thù nghề nghiệp của hoạt động báo chí đã được quy định tại Luật báo chí và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Ngoại giả, một trong những quyền căn bản của nhà báo đã được ghi nhận tại Khoản 3 Điều 8 Nghị định số 51/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật báo chí, đó là: “Được hoạt động nghiệp vụ lấy tin, chụp ảnh, quay phim, ghi âm tại các phiên tòa xét xử công khai, được dành chỗ ngồi riêng, được giao thông trực tiếp với các quan toà, trạng sư để lấy tin, phỏng vấn theo quy định của pháp luật”.

Xét về thuộc tính đặc thù nghề nghiệp của nghề báo, để có thông báo đầy đủ, xác thực, kịp thời phản ánh chân thực và khách quan các sự kiện mang tính thời sự, chính trị trong tầng lớp, các phóng viên phải trực tiếp xâm nhập thực tại để thu thập thông tin, trong đó rất cần dùng các dụng cụ nghiệp vụ hỗ trợ như máy thu thanh, ghi hình.

Và như vậy, khi có mặt tại các phiên tòa xét xử, việc phóng viên, nhà báo thực hiện thu âm, ghi hình một mặt giúp cho các thông báo cần thu thập được chuẩn xác và đầy đủ, mặt khác có được tư liệu thực tại, nâng cao chất lượng, hiệu quả truyền tải thông báo tới thính giả, độc giả.

(Hẳn nhiên, theo quy định của Luật Báo chí, việc dùng các thông tin ghi âm, ghi hình đã thu thập được của phóng viên, nhà báo phải tuân chém nguyên tắc không làm tổn hại tới uy tín, danh dự, phẩm giá của công dân và tổ chức có liên can).

Nhưng với quy định tại Dự thảo Pháp lệnh 1 thì quyền tác nghiệp của báo chí đã bị thu hẹp. Có nghĩa là, nếu Chánh án Tòa án không đồng ý hoặc chậm trễ trong việc đồng ý bằng văn bản thì dĩ nhiên các nhà báo, phóng viên sẽ bị bảo vệ chặn ngay từ cổng ra vào, mặc dù phiên tòa diễn ra công khai.

Trường hợp khác, nếu muốn ghi âm, ghi hình tại phiên tòa do TANDTC xét xử tại TP. Hồ Chí Minh thì các nhà báo, phóng viên phải lặn lội hàng nghìn cây số ra tận Hà Nội để xin sự đồng ý bằng văn bản của Chánh án TANDTC, nếu Chánh án TANDTC đi công tác thì coi như các phóng viên, nhà báo... Mất quyền tác nghiệp.

Phải chăng vì ngại bị phản chiếu... Sự thực?

Một phóng viên chuyên theo dõi mảng pháp đình tâm can, để được tác nghiệp trong phiên tòa thì phóng viên phải xuất trình thẻ nhà báo hoặc giấy giới thiệu với quan toà chủ tọa phiên tòa. Cố nhiên các quy định này không được ứng dụng thống nhất trong cả nước. Thẩm phán nào dễ tính thì phóng viên được tạo điều kiện thuận tiện khi tác nghiệp, gặp phải vị khó tính khó nết thì họ phải xuất trình đủ mọi giấy tờ, từ Thẻ nhà báo, Chứng minh quần chúng đến Giấy giới thiệu của cơ quan...

Nếu không có đủ các loại giấy tờ này thì các nhà báo, phóng viên chỉ có quyền dự phiên tòa chứ không có quyền ghi âm, chụp ảnh....

Nhiều ý kiến lo ngại, bấy lâu khi các cấp tòa án chưa có quy định thống nhất về giới hạn tác nghiệp của báo chí tại phiên tòa nên một số tòa đã tự đặt ra nhiều thủ tục nhằm hạn chế sự có mặt của báo chí. Sắp tới, nếu các Dự thảo Pháp lệnh trên được ưng chuẩn thì hoạt động báo chí tại phiên tòa sẽ phải “vượt” qua một thủ tục hành chính nép. Quy định này đã làm nhà báo mất đi tính chủ động trong khi tác nghiệp.

Giờ, Đảng và quốc gia ta đang thực hiện quyết liệt công cuộc canh tân tư pháp, trong đó việc xét xử của Tòa án phải cứ vào quá trình tranh tụng tại tòa- đây là một “giai đoạn” quyết định đến việc xét xử đúng người, đúng tội, đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho đương sự.

Thông thường, phần tranh luận tại Tòa thường là những cuộc “đối đầu” nảy lửa bởi các trạng sư, Hội đồng xét xử và đại diện Viện kiểm sát có những quan điểm khác nhau. Để có thể truyền tải thông tin tại phiên tòa một cách xác thực thì các phóng viên, nhà báo dù có mười tay cũng không thể “tốc ký” hết mọi diễn biến tại tòa và không còn cách nào khác là họ phải cần đến phương tiện trợ giúp là máy thu thanh, ghi hình.

“Không chỉ nhà báo, phóng viên mà ngay cả luật sư hay nguyên đơn, bị đơn.. Cũng có quyền được ghi âm để họ có bằng chứng cho việc giải quyết vụ án về sau. Theo tôi, họ có quyền được làm việc này (miễn không ảnh hưởng đến trật tự phiên tòa). Vậy tại sao các Dự thảo Pháp lệnh lại yêu cầu việc ghi âm, ghi hình phải có sự đồng ý bằng văn bản của Chánh án hoặc thẩm phán chủ tọa phiên tòa? Phải chăng vì Tòa sợ báo chí sẽ phát hiện ra việc xét xử của mình không khách quan?”- một trạng sư phân tích.

Vân Anh