Nếu phải so sánh, chúng ta cần biết rằng mật độ dân số làng nhàng ở châu Âu là 181 người trên một dặm vuông, và tại Hà Lan, người ta phải quy hoạch khéo léo# đến nỗi có thể đặt chừng 420 ngôi nhà trong một dặm vuông (nếu mặc định rằng một ngôi nhà có ba đứa ở). Bóng đá của người Hà Lan, cho nên, cũng là câu chuyện về những sáng tạo với khoảng trống.
Vệ thành, và lấn biển Rinus Michel chính là người đã mang tư duy đặc biệt về không gian của người Hà Lan vào bóng đá. Lý thuyết là cho dù hai đội cùng chơi trên một sân bóng có kích thước một mực, nhưng chuẩn y chuyển di và giữ vị trí, một đội có thể điều khiển và kiểm soát không gian tốt hơn, và từ đó chiếm lĩnh trận đấu. Triết lý của Michels trong phòng thủ bắt nguồn từ ý tưởng… vệ thành của Hà Lan trước các đợt tấn công của người TBN vào thế kỷ 16. Họ làm cho không gian bao quanh tường thành càng nhỏ càng tốt, để khoảng không ấy ngập nước, và chiến lược này được thực hành dễ dàng bởi phần lớn diện tích Hà Lan nằm dưới mực nước biển. Hà Lan là bậc thầy về không gian, bao gồm cả việc kiến tạo khoảng trống trước đó không có sự sống. Họ lấn biển, lấp đầm lầy và ao hồ để sinh sống và xây nhà cửa trên không gian mới ấy. Trong bóng đá, người Hà Lan thu hẹp các khoảng trống rất giỏi khi phòng thủ, và mở rộng nó với một sự linh hoạt khó tin khi tiến công. Hiện nay, không gian đóng vai trò rất quan yếu trong bóng đá, nhưng cho đến khi Rinus Michel sáng tạo ra Bóng đá Tổng lực (Totaal Voetbal) vào thập niên 1970, lúc chưa ai quan hoài đến khái niệm này. Tạo ra khoảng trống và điều khiển các hậu vệ đối phương Đội Hà Lan của thập niên 1970 là tập thể trước hết áp dụng sự hoán chuyển để tạo ra không gian linh hoạt, với sơ đồ 4-3-3 và bộ ba trên hàng công là Rep (trái)– Cruyff (chơi cao nhất)– Resenbrink (phải). Nếu hàng phòng thủ đối phương là 4 người giăng ngang, Cruyff, xuất hành ở vị trí giữa hai trung vệ, sẽ chuyển di lùi xuống để mở ra khoảng trống ở nách hàng thủ đối phương, và Reap – Resenbrink sẽ nhất loạt ập vào từ bên cánh, nhờ khoảng trống xuất hiện ngay lập tức ấy. Hoặc nếu một trong hai trung vệ đeo bám Cruyff, thì Hà Lan sẽ cần thêm một người nữa dự tấn công, thường là Neeskens. Trong bóng đá hiện đại, đó là “bài” tiến công rất đơn giản, với sự phổ thông của những “số 9 ảo” như Messi tại Barcelona hay Totti của AS Roma (xuất phát cao nhất trên hàng công, nhưng thường chơi lùi để tạo khoảng trống). Nhưng vào thập niên 1970, đó là sáng tạo phi thường, phá tan hệ thống phòng thủ kèm người phổ thông thời khắc ấy. Sau này, khi phòng thủ khu vực ra đời, không gian của trận đấu trở nên ổn định hơn, và cách tạo ra khoảng trống cũng phải linh hoạt hơn, nhưng chúng ta sẽ bàn đến điều này vào một dịp khác. Phòng vệ bằng cách pressing để triệt tiêu không gian Góc cạnh Phòng thủ trong bóng đá tổng lực thậm chí còn hích hơn rất nhiều so với góc cạnh tấn công, bởi ngày nay, chúng ta không còn được chứng kiến cách phòng ngự kiểu ấy, một phương pháp độc nhất vô nhị. Hà Lan của Rinus Michel phòng vệ bằng một đội hình dâng cao không tưởng và luôn duy trì áp lực kinh khủng lên đối phương. Không giống như các đội bóng khác cố bảo vệ cầu môn, Hà Lan đích thực bảo vệ từ nửa sân của đối phương: Nhờ dâng đội hình lên đến… giữa sân, Hà Lan đã triệt tiêu được một nửa không gian mà đối phương có thể sử dụng để tấn công họ: Phần sân mà các cầu thủ Hà lan vừa bỏ lại phía sau. Bạn có thể chứng kiến cách phòng ngự kỳ lạ này trong các băng hình của đội tuyển Hà Lan ở World Cup 1974: Đối phương hầu như thường có khoảng trống và thời gian đủ để triển khai lối chơi, dưới áp lực mạnh mẽ của đội hình Hà Lan dâng cao. Đội áo da cam vận dụng bẫy việt vị một cách cực kỳ mạo hiểm, và chúng ta đã thấy họ được đá phạt việt vị từ… mấp mé giữa sân. Cách chơi dâng cao với nguyên tắc pressing để đoạt lại bóng trong 6 giây sau khi mất của Barcelona ngày nay cũng bắt nguồn từ ý tưởng nguyên thủy trong bóng đá tổng lực: Khép lại không gian nhanh và chính xác nhất có thể chính là phương pháp phòng thủ ráo trọi nhất. Nhưng chưa một đội bóng nào trong lịch sử lại thực hiện ý tưởng ấy một cách táo tợn đến cơ cực như Hà Lan của thập niên 1970. Phạm An |